Ngoài chức năng là thế giới quan thì phương pháp luận còn là một trong hai chức năng cơ bản nhất của triết học, phương pháp luận định hướng cho con người xác định được, lựa chọn được và sử dụng phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người một cách hiệu quả. Vậy biện chứng trong triết học được hiểu như thế nào? Phương pháp luận biện chứng trong Triết học?
1. Biện chứng là gì?
Biện chứng có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại là Dialectic.
Biện chứng hay còn gọi là phép biện chứng, phương pháp biện chứng. Đây là một phương pháp luận, nó tồn tại ở cả hai nền triết học phương đông và phương tây ở thời cổ đại.
Biện chứng có nền tảng là từ các cuộc đối thoại giữa hai hoặc nhiều người với những ý kiến, tư tưởng khác nhau và thậm chí có thể là trái ngược nhau nhưng họ có cùng mong muốn đó là thuyết phục người khác bằng những lý lẽ có căn cứ của mình.
Phép biện chứng là một phương pháp triết học, hay nói cách khác đó là tuy duy của con người phát triển theo một phương thức được đặc trưng bởi cái gọi là ba đoạn của biện chứng đó là chính đề, phản đề và hợp đề, cụ thể như sau:
– Chính đề là đầu tiên có một ý tưởng nào đó, hoặc một lý thuyết, hoặc một xu hướng vận động nào đó thì được gọi là một “chính đề”. Một chính đề thường là sẽ tạo ra một cái đối lập, lý do là giống như hầu hết tất cả các sự vật tồn tại trên trời đất này, có lẽ là nó sẽ có một giá trị hạn chế và sẽ có các điểm yếu nhất định.
– Phản đề: là những ý tưởng hoặc những xu hướng vận động đối lập được gọi là “phản đề”, bởi vì lý do là nó nhằm phản đối lại cái trước tiên tức là phản đối lại chính đề. Cuộc tranh đấu giữa các chính đề và phản đề sẽ diễn ra cho tới khi đạt được một giải pháp nào đó mà theo một nghĩa nhất định mà nó vượt lên trên cả chính đề và phản đề lý do là nó phát hiện ra được các giá trị riêng của chúng hoặc do nó cố gắng bảo tồn các tinh hoa và tránh tối đa các hạn chế của cả hai;
– Hợp đề: giải pháp mà đạt được ở tại bước thứ ba này thì được gọi là “hợp đề”. Đến khi đạt được hợp đề, đến lượt nó có thể lại là trở thành bước thứ nhất trong một của ba đoạn của biện chứng mới khác. Quá trình biện chứng sẽ lại tiếp tục tiếp diễn như thế nếu hợp đề cụ thể vừa đạt được lại không đủ thuyết phục hoặc không thỏa mãn. Trong trường hợp như này, các mặt đối lập sẽ lại nổi lên và điều này có nghĩa là cái hợp để vừa mới đạt được có thể được mô tả như là một chính đề mới và cái chính đề tạo ra một phản đề mới. Chính vì vậy, ba đoạn biện chứng sẽ lại một lần nữa diễn ra ở một trình độ cao hơn và nó có thể đạt tới một cấp độ cao hơn khi một hợp đề khác xuất hiện.
2. Phân loại biện chứng:
Phép biện chứng trải qua ba giai đoạn phát triển đó là phép biện chứng cổ đại, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
2.1. Phép biện chứng cổ đại:
Phép biện chứng cổ đại là phép biện chứng bắt đầu xuất hiện trong triết học thời cổ đại. Các nhà triết học tại phương Đông lẫn cả phương Tây thời cổ đại đã xem thế giới khách quan có sự thay đổi trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Tuy nhiên, những gì mà các nhà biện chứng hồi đó thấy được chỉ là trực kiến nhưng chưa phải là kết quả của quá trình nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
Như đã nêu ở trên, phép biện chứng cổ đại bắt đầu có từ thời cổ đại. Nổi bật về phép biện chứng này chính là các nền triết học của thời Trung Hoa cổ đại, Ấn Độ cổ đại và Hy Lạp cổ đại:
– Tại Trung Hoa cổ đại, nổi bật nhất là thuyết biến dịch luận và thuyết ngũ hành luận của Âm Dương Gia.
– Tại Ấn Độ cổ đại, biểu hiện rõ nét nhất chính là tư tưởng của Đạo Phật bao gồm vô ngã, vô thường và nhân duyên.
– Tại Hy Lạp cổ đại, các nhà triết học đã thể hiện được sâu sắc tinh thần của phép biện chứng. Và nhà tư tưởng Friedrich Engels có nhận xét rằng: “Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại hầu hết đều là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh. Aristotle – chính là một nhà triết học và bác học thời này là người có bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy và cũng đã nghiên cứu các hình thức được gọi là căn bản nhất của phép biện chứng. Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ tuy nhiên xét về thực chất thì đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Heraclitus – nhà triết học duy vật trình bày một cách khá rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều đang không ngừng thay đổi, mọi vật đều đang không ngừng phát sinh và tiêu vong.
Tuy nhiên, phép biện chứng cổ đại về căn bản lại mang tính chất sơ khai. Chính vì thế mà nhà tư tưởng Friedrich Engels cũng có một nhận xét như sau: “Trong triết học này, tư duy biện chứng đã xuất hiện với một tính chất thuần phác tự nhiên như chưa bị khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu. Chình vì người Hy Lạp cổ đại chưa đạt tới trình độ mổ xẻ rồi phân tích giới tự nhiên, cho nên vì thế họ hãy còn quan niệm rằng giới tự nhiên là một chỉnh thể và đứng về mặt toàn bộ mà xét chỉnh thể đó. Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên này chưa được chứng minh về chi tiết và đối với họ, mối liên hệ đó chính là kết quả của sự quan sát trực tiếp”.
Tóm lại là tuy phép biện chứng thời cổ đại đã nhận thức được đúng về bản chất của thế giới nhưng lại là nghiên cứu bằng trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác và ngây thơ, rõ ràng chưa có sự chứng minh cụ thể của khoa học tự nhiên.
2.2. Phép biện chứng duy tâm:
Vào thế kỷ thứ XV, những nghiên cứu cụ thể về từng môn khoa học đã khiến cho siêu hình học phát triển. Đến thế kỷ thứ 18, phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức cũng đã phát triển khởi đầu từ Immanuel Kant (một triết gia người Đức) và đạt tới đỉnh cao từ Georg Wilhelm Friedrich Hegel (nhà triết học người Đức).
Các nhà triết học này đã trình bày ra những tư tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng duy tâm một cách có hệ thống. Triết học Hegel duy tâm ở chỗ đó là phép biện chứng là cái mà được bắt đầu từ “ý niệm tuyệt đối”, nhà triết học coi biện chứng chủ quan chính là cơ sở của biện chứng khách quan. Theo ông, “ý niệm tuyệt đối” chính là điểm khởi đầu của sự tồn tại, nó tự “tha hóa” thành tự nhiên và quay trở về bản thân nó trong tồn tại tinh thần. Tinh thần, tư tưởng, ý niệm chính là cái có trước, còn đối với thế giới hiện thực nó chỉ là một bản sao chép của ý niệm. Không chỉ có nhà triết học Hegel, các nhà triết học cổ điển Đức khác cũng đã xây dựng nên phép biện chứng duy tâm bằng một hệ thống logic.
2.3. Phép biện chứng duy vật:
Nhà tư tưởng Engels cũng đã nhấn mạnh ý kiến của Karl Marx (nhà triết học người Đức gốc Do Thái) rằng:
“Tính chất thần bí mà có ở tại phép biện chứng trong tay nhà triết học Hegel tuyệt nhiên không ngăn cản nhà triết học Hegel trở thành một người đầu tiên trình bày một cách cụ thể và bao quát, có ý thức những hình thái vận động chung của phép biến chứng. Ở nhà triết học Hegel, phép biện chứng duy vật bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ thấy được những cái hạt nhân hợp lý ở ngay đằng sau cái vỏ thần bí của nó”.
Kế thừa nhà triết học Hegel, nhà triết học Marx và nhà tư tưởng Engels đã xây dựng được nên phép biện chứng duy vật là bằng cách xem phép biện chứng duy vật chính là “khoa học về những quy luật chung của những sự vận động tại thế giới bên ngoài cũng như của tư duy chính con người”.
3. Phương pháp luận biện chứng trong triết học:
Phương pháp luận biện chứng là một trong những phương pháp luận rất quan trọng trong cả Triết học phương Đông và triết học phương Tây ở thời cổ đại. Theo đó, phương pháp luận biện chứng đóng vai trò nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, chúng ảnh hưởng nhau, chúng ràng buộc nhau. Nhận thức được đối tượng ở trong trạng thái vận động biến đổi, nó nằm trong khuynh hướng chung chính là phát triển. Đây là một quá trình thay đổi về chất đối với các sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của những sự thay đổi ấy chính là đấu tranh của các mặt đối lập nhằm để giải quyết các mâu thuẫn nội tại của chúng.
Như vậy, có thể thấy phương pháp biện chứng thể hiện được tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Phương pháp biện chứng thừa nhận rằng trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc là… hoặc là…” thì còn có cả cái “vừa là… vừa là…” nữa; không những thế nó còn thừa nhận một chỉnh thể nào đó trong lúc “vừa là nó lại vừa không phải là nó”; ngoài ra nó còn thừa nhận cái gọi là khẳng định và cái gọi là phủ định, nó vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó với nhau.
Phương pháp biện chứng phản ánh được cái hiện thực đúng như nó đang tồn tại. Nhờ vậy mà phương pháp tư duy biện chứng đã trở thành những công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức được và cải tạo thế giới.
4. Ví dụ về phương pháp luận biện chứng trong triết học:
Có thể lấy một vài ví dụ về phương pháp luận biện chứng trong triết học như sau:
– Hiện tượng mưa chính là do hơi nước bốc hơi lên từ mặt đất và tạo nên các đám mây, khi quá nhiều lượng nước trong mây thì dĩ nhiên mây sẽ chuyển dần thành màu đen và khi đó theo lẽ tự nhiên hạt mưa sẽ rơi xuống.
– Một viên phấn dưới tác dung lực của cơ học thì sau khi con người dùng lực viết viên phấn đó lên một vật khác thì viên phấn sẽ bị bào mòn đi và không còn hình dạng như ban đầu nữa. Dưới tác dụng hoá học sẽ bị ăn mòn dần chính vì thế theo thời gian viên phấn sẽ không còn như ban đầu nữa.
– Con người có nguồn gốc từ loài vượn, sau một khoảng thời gian dài tiến hóa thì con người dần hoàn thiện và phát triển, sự tiến hoá này không phải con người tạo ra mà là do tự nhiên mà xuất hiện, do trời đất.